THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG ĐỐI CHỨNG NGẪU NHIÊN
Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (Randomized
controlled clinical trials; viết tắt RCT) là loại hình nghiên cứu thực nghiệm
có giá trị nhất về mặt y học chứng cứ để đánh giá hiệu quả của một thuật điều
trị. Sơ đồ thiết kế RCT được minh họa trong biểu đồ 1.
Biểu đồ 1. Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên
RCT là một thử nghiệm trong đó các đối tượng được phân phối
vào 2 nhóm: Nhóm thử nghiệm nhận được can thiệp (thuốc điều trị mới, phẫu thuật
mới…) và nhóm đối chứng hoặc nhóm so sánh được điều trị thường quy hoặc giả trị
(placebo). Sau đó cả 2 nhóm được theo dõi cùng một thời gian để xem kết cục
giữa 2 nhóm có khác nhau hay không. RCT là thử nghiệm có giá trị nhất về mặt
khoa học để xác định mối liên hệ giữa nguyên nhân-hậu quả hoặc giữa can thiệp
và kết cục.
1. Các bước tiến hành một nghiên
cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên
Các bước tiến hành một RCT gồm xác định cỡ mẫu, chọn ngẫu
nhiên đối tượng vào 2 nhóm (chứng, can thiệp) và theo dõi kết cục ở mỗi nhóm.
1.1. Cỡ mẫu
Việc xác định cỡ mẫu rất quan trọng. Nếu cỡ mẫu nhỏ nhiều
khi không rút ra được kết luận từ công trình nghiên cứu. Ngược lại, cỡ mẫu lớn
gây hao phí tài nguyên, tiền bạc và thời gian.
Trong nghiên cứu RCT, biến kết cục thường ở 2 dạng:
- Biến số liên tục như trị số huyết áp (140mmHg), cân nặng
(30kg), chiều cao (160cm), thời gian cắt sốt (giờ, ngày)…
- Biến nhị phân (binomial) hoặc tỉ lệ: Sống-Chết hoặc tỉ lệ
khỏi bệnh (%), tỉ lệ tử vong (%).
Công thức tính cỡ mẫu khác nhau cho mỗi loại biến kết cục,
nói chung nếu biến kết cục là biến số thì cỡ mẫu thường nhỏ hơn cỡ mẫu của biến
kết cục là biến nhị phân (hoặc tỉ lệ).
Một ví dụ để tính cỡ mẫu cho biến kết cục là biến số liên
tục:
Nghiên cứu tác dụng
của một loại thuốc hạ huyết áp mới Y so sánh với thuốc hạ huyết áp cũ X đã dùng trước đây ở bệnh nhân bị tăng huyết áp trung bình.
Trước hết ta phải xác
định:
(1) Sự khác biệt mong
muốn (D): Thuốc mới Y có tác dụng hạ huyết áp tâm thu mạnh hơn thuốc cũ X (ví
dụ: giảm
20 mmHg).
(2) Phải biết độ dao động của đo lường, cụ thể là độ lệch chuẩn
(SD) của HA tâm thu thường được dựa vào các công trình nghiên cứu trước
đây hoặc dựa vào bảng hằng số sinh học
đã được điều tra trong dân chúng, ví dụ độ lệch chuẩn của HA tâm thu trên người
Việt Nam là 10 mmHg [1]
(3) Sai sót mà nhà nghiên cứu chấp nhận:
- Sai sót loại I (Sai sót a): thường được chọn ở mức
0,01 hoặc 0,05
- Sai sót loại II (Sai sót b): thường được chọn ở mức 0.1 hoặc 0,20
hoặc lực mẫu ( power)= (1-β)=0,80
Hằng số C tính theo
α và β được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Hằng số C theo α và β
Alpha (α)
|
Beta (β)
|
|||
0.1
|
0.2
|
0.5
|
||
0.1
|
8.6
|
6.2
|
2.7
|
|
0.05
|
10.5
|
7.9
|
3.8
|
|
0.01
|
14.9
|
11.7
|
6.6
|
Công thức tính cỡ mẫu cho kết cục là biến số liên tục [1]
Thế các trị số (D=20; SD=10; C=7,9) vào công thức [1] ta có:
n
= 79 (Cần 79 đối tượng cho
mỗi nhóm)
Nếu kết cục là một biến nhị phân (hoặc tỉ lệ), thì dùng công thức tính cỡ mẫu như sau [2]:
(Lúc này ta không cần SD mà cần xác định hiệu lực thuốc mới
so với thuốc cũ chênh lệch bao nhiêu %).
Ví dụ: Một nghiên cứu dùng gatifloxacin để điều trị thương
hàn so với thuốc cũ trước đây là ciprofloxacin. Cụ thể ta xác định các giá trị
sau:
- Thuốc cũ (Ciprofloxacin) hiệu lực 80% (P1)
- Thuốc mới (Gatifloxacin) hiệu lực 90% (P2)
- Sai sót
loại I (α)=0.05
- Sai sót loại II
(β)= 0.20 hoặc lực mẫu
(power)= (1-β)=0.80
- C (α,β)= 7.9
Thế vào công thức
tính cỡ mẫu [2]
n =197.5 (
Cần 197 đối tượng cho mỗi nhóm)
1.2. Nhóm đối chứng
Trong thử nghiệm lâm sàng không có nhóm đối chứng thì hiệu
lực điều trị sẽ không xác định được vì có thể một sồ bệnh nhân tự khỏi mà không
cần điều trị.
Trong thực hành lâm
sàng, trước đây trong một thời gian dài các thầy thuốc vẫn dùng nước đá lạnh
bơm vào dạ dày để làm giảm đau cho các bệnh nhân bị loét dạ dày. Kết quả của
nghiên cứu không nhóm đối chứng này đã được công bố trên tờ Journal of the
American Medical Association với ý tưởng làm lạnh dạ dày sẽ giảm tiết acid và
giảm đau. Nhiều năm sau, một thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đã được
thực hiện, nhà nghiên cứu chia bệnh nhân đau dạ dày làm 2 nhóm ngẫu nhiên, một
nhóm được điều trị dùng nước đá lạnh như cũ, nhóm kia thay vì dùng nước đá
lạnh, bệnh nhân được bơm vào dạ dày bằng nước ấm 370C. Kết quả
nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh nhân được bơm
bằng nước ấm có kết quả giảm đau tốt hơn! [3].
Như vậy cho thấy có sự diễn dịch sai lệch kết quả nếu không
có nhóm đối chứng. Trong thực tế lâm sàng, bất cứ một can thiệp, một sự giúp đỡ
nào của thầy thuốc cũng làm cho bệnh nhân dễ chịu và cảm thấy đở đau hơn. Tác
dụng giảm đau này có thể do sự tin tưởng và mong đợi được chữa lành của bệnh
nhân đối với thầy thuốc. Tác dụng này được gọi là hiệu ứng giả dược (placebo
effect). Chính vì lý do này, việc đánh giá hiệu quả của một thuật điều trị cần phải
có nhóm đối chứng.
1.3. Phân bố ngẫu nhiên vào hai nhóm
Để chọn ngẫu nhiên vào hai nhóm trước hết chúng ta xem bệnh
nhân có đầy đủ tiêu chí để tuyển chọn vào nghiên cứu không? Hoặc có tiêu chí
nào phải loại trừ? Bệnh nhân hoặc người thân bệnh nhân có đồng ý và ký vào giấy
ưng thuận (consent form) không? và điều quan trọng là nghiên cứu này đã được
thông qua Hội đồng Y đức bởi vì nhóm chứng được điều trị giả dược và ngay cả
nhóm nghiên cứu được điều trị bằng phương pháp mới có thể không hiệu quả làm
ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh.
Các đối tượng phân vào 2 nhóm (nghiên cứu và đối chứng) phải
được phân bố ngẫu nhiên theo toán học, có nghĩa là không theo ý định có sẵn của
nhà nghiên cứu chẳng hạn theo thứ tự khám của bệnh nhân: số lẻ 1, 3, 5 … cho
vào nhóm chứng, số chẵn 2, 4, 6 … cho vào nhóm nghiêu cứu, hoặc bệnh nhân vào
viện ngày chẵn vào nhóm chứng, nhập viện ngày lẻ vào nhóm nghiên cứu, hoặc ngay
cả bắt thăm theo kiểu xổ lô tô. Tốt nhất là dùng một bảng số ngẫu nhiên, thường
được in trong phần phụ lục các sách thống kê hoặc có thể sử dụng các phần mềm
thông dụng như Epi-Info, R…hoặc ngay cả phần mềm Excel để tạo bảng số ngẫu
nhiên.
Cách tạo các số ngẫu nhiên trong Excel
Ví dụ mẫu nghiên cứu
gồm 20 đối tượng (10 đối tượng thuộc nhóm can thiệp và 10 thuộc nhóm chứng).
Cột Number đánh số thứ tự từ 1-20. cột Random (bảng A) đánh vào ô đầu tiên với
hàm: = RAND (). Nhắp và kéo xuống sẽ cho các số
ngẫu nhiên trong bảng A. Dùng lệnh Sort AgZ
tại cột Random, các số trong cột Number sẽ xếp lại như trong bảng B. Chọn số lẻ
cho nhóm can thiệp và số chẵn cho nhóm chứng. Sau đó cho vào phong bì và dán
kín đánh số thứ tự (Khâu này được thực hiện bởi người không tham gia trực tiếp
vào nhóm nghiên cứu).
Một khi đối tượng đã được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm can
thiệp hoặc nhóm chứng để tránh sai lệch thì không có quyền thay đổi nữa.
Mục đích của phân bố ngẫu nhiên là các yếu tố gây nhiễu
(confounders) như giới, tuổi, độ nặng của bệnh.. được phân phối đều vào hai
nhóm. Tuy nhiên trong một số nghiên cứu nếu dự kiến một số biến dự đoán
(predictors) có thể gây nhiễu làm ảnh hưởng kết cục, có thể thực hiện phân tầng trước khi phân bổ ngẫu
nhiên. Ví dụ phân tầng theo độ nặng, theo giới, theo tuổi…
Bảng
A Bảng B
Số thứ tự
|
RANDOM
|
Số ngẫu nhiên
|
RANDOM
|
Nhóm
|
|
1
|
=
|
1
|
0.57546
|
CT
|
|
2
|
0.732955
|
13
|
0.736366
|
CT
|
|
3
|
0.559934
|
15
|
0.755214
|
CT
|
|
4
|
0.325866
|
14
|
0.065018
|
C
|
|
5
|
0.541122
|
10
|
0.001581
|
C
|
|
6
|
0.566181
|
18
|
0.499797
|
C
|
|
7
|
0.678709
|
4
|
0.056378
|
C
|
|
8
|
0.808609
|
20
|
0.32811
|
C
|
|
9
|
0.555652
|
17
|
0.451613
|
CT
|
|
10
|
0.266133
|
5
|
0.896286
|
CT
|
|
11
|
0.907724
|
9
|
0.64472
|
CT
|
|
12
|
0.968827
|
3
|
0.238962
|
CT
|
|
13
|
0.061496
|
6
|
0.634921
|
C
|
|
14
|
0.161172
|
7
|
0.767486
|
CT
|
|
15
|
0.07835
|
16
|
0.169254
|
C
|
|
16
|
0.689058
|
2
|
0.61328
|
C
|
|
17
|
0.448128
|
8
|
0.692642
|
C
|
|
18
|
0.27163
|
19
|
0.719491
|
CT
|
|
19
|
0.892803
|
11
|
0.739711
|
CT
|
|
20
|
0.428246
|
12
|
0.916559
|
C
|
CT: Can thiệp;
C: Chứng
1.4. Thử nghiệm mù đôi (Double-blind trial)
Khi cả nhà nghiên cứu và bệnh nhân (đối tượng nghiên cứu)
không biết mình được phân bổ và được
nhận điều trị vào nhóm nào. Vì vậy cần bào chế giả dược (placebo) giống y như
thuốc điều trị ở nhóm can thiệp, chỉ có mã số trên viên thuốc khác nhau. Tất cả
các công việc trong khâu “mù đôi” nên giao cho dược sĩ bệnh viện và khi có tai
biến thuốc xảy ra cần lập tức loại bỏ việc che dấu này để chữa trị kịp thời cho
bệnh nhân. Mục đích làm “mù đôi” là loại bỏ sai lệch, chẳng hạn nhà nghiên cứu
cố ý chăm sóc tốt hơn cho nhóm can thiệp.
Tuy nhiên “mù đôi” không phải lúc nào cũng thực hiện được vì
không thể bào chế giả dược hoặc các can thiệp ngoại khoa (bác sĩ phẫu thuật đã
biết phương pháp mổ cho bệnh nhân), do vậy “mù đơn” (chỉ bệnh nhân không nhận
biết loại điều trị) hoặc không mù (open label) cũng thường được áp dụng.
1.5. Phân tích kết quả
Có 2 loại phân tích kết quả per protocol (PP) và
intention-to-treat (ITT).
- Phân tích per protocol (tạm dịch là phân tích theo quy
trình): Chỉ những người hoàn tất thử nghiệm mới được đưa vào phân tích. Loại
phân tích này có thể dẫn đến sai lệch kết quả điều trị giữa hai nhóm vì kinh
nghiệm cho thấy những đối tượng tuân thủ theo đúng quy trình, không bỏ cuộc
giữa chừng, thường có kết cục điều trị tốt hơn dù ở nhóm can thiệp hoặc nhóm
chứng. Một ví dụ minh chứng vấn đề này [4]:
một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng gồm 200 BN bị bệnh mạch máu não được
phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm:
* Nhóm 1 (n=100): Điều trị aspirin + phẫu thuật sau 1 tháng
dùng aspirin
* Nhóm 2 (n=100): chỉ điều trị aspirin
Kết cục chính (primary outcome) của thử nghiệm lâm sàng này
là đột quỵ (stroke) xảy ra trong vòng 1 năm.
Trong thời gian chờ mổ, nhóm 1 có 10 BN bị đột quỵ và sau
khi mổ có thêm 10 BN bị đột quỵ. Ở nhóm 2, trong thời gian này có 20 BN bị đột
quỵ. Như vậy nếu phân tích theo quỵ trình, loại bỏ 10 người chưa mổ, kết
cục nhóm 1 có tỉ lệ bị đột quỵ là 10/90
(11%) và kết cục nhóm 2 tỉ lệ mắc đột quỵ là 20/100 (20%) và tỉ lệ giảm nguy cơ
tương đối (relative risk reduction) là 0,45! (biểu đồ 2).
- Phân tích intention-to-treat (tạm dịch: phân tích theo phân
bổ ngẫu nhiên ban đầu): Tất cả các đối tượng ngay sau khi được phân bổ ngẫu
nhiên đều được đưa vào phân tích mặc dù một số đối tượng chưa hoàn tất điều
trị. Như ví dụ trên, mặc dù nhóm 1 có 10 BN chưa kịp phẫu thuật đã tử vong
nhưng khi phân tích vẫn được tính vào nhóm có phẫu thuật, vì vậy lúc này tỉ lệ đột
quỵ của nhóm 1 là 20/1000 (20%) và tỉ lệ giảm nguy cơ tương đối (RRR) là 0. (biểu
đồ 2).
Tóm lại để tránh sai lệch trong việc đánh giá kết cục điều
trị và làm cho thử nghiệm giống bối cảnh lâm sàng thật sự, khi phân tích phải
bao gồm luôn cả những đối tượng bỏ dở điều trị, vì vậy phân tích theo phân bổ
ngẫu nhiên ban đầu thường được dùng trong nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu
nhiên. Tuy nhiên nếu số đối tượng bị mất dấu theo dõi (lost to follow-up) quá
nhiều thì phân tích theo phân bổ ngẫu nhiên ban đầu cũng bị sai lệch như trong
phân tích theo quy trình. [4]
R: Phân bổ ngẫu nhiên; ASA: Aspirin
Biểu đồ 2. Kết quả phân tích theo per protocol và intention-to-treat
2. Bài báo mẫu về nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên
Sau đây là một ví dụ thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu
nhiên được thực hiện tại Bệnh viện An Giang hợp tác với Bệnh viện Chợ Quán,
Bệnh viện Cao Lãnh và Đại học Oxford .
Chúng tôi chỉ trình bày đầy đủ chi tiết phần thiết kết nghiên cứu, cách chọn
ngẫu nhiên, tính cỡ mẫu và phân tích thống kê. Các phần khác chỉ trình bày tóm
tắt.
Tựa đề tài: Một
thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm so sánh gatifloxacin với azithromycin
trong điều trị thương hàn không biến chứng ở trẻ em và người lớn tại Việt Nam [5]
Mục tiêu: Xác
định tính an toàn, hiệu quả, sẵn có và chấp nhận được của các kháng sinh điều
trị thương hàn đa kháng và kháng nalidixic acid.
Thiết kế nghiên cứu:
Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên.
Đối tượng: Tất cả
BN mắc Thương hàn không biến chứng (nghi ngờ trên lâm sàng hoặc cấy máu). Loại
bỏ các BN có thai, trẻ dưới 6 tháng tuổi, tiền sử dị ứng thuốc được thử nghiệm,
có triệu chứng nặng của bệnh Thương hàn (sốc, vàng da nặng, bệnh lý não, co
giật, xuất huyết, nghi ngờ thủng ruột), đã dùng fluoroquinolon, cephalosporin
thế hệ 3 hoặc nhóm macrolid 1 tuần trước nhập viện.
Nơi nghiên cứu và Hội
đồng Y đức: Bệnh viện bệnh nhiệt đới TPHCM, Bệnh viện Cao Lãnh và BV An
Giang. Nghiên cứu được phê duyệt bởi Hội đồng Khoa học và Y đức BV Nhiệt đới
TPHCM và Hội đồng Y đức về nghiên cứu bệnh nhiệt đới của Đại học Oxford Anh
quốc cho cả 3 nơi nghiên cứu.
Phân bố đối tượng ngẫu nhiên vào 2 nhóm:
-
Nhóm 1:
Azithromycin (ZITHROMAX, Pfizer) uống 20mg/kg-1 lần/ngày x 7 ngày.
-
Nhóm 2: Gatifloxacin (TEQUIN, Bristol-Myer
Squibb) 10mg/kg-1 lần/ngày x 7 ngày.
Kết cục của nghiên cứu
Điểm kết thúc chính (primary endpoint) của nghiên cứu là thời
gian cắt sốt. Cắt sốt được định nghĩa khi nhiệt độ nách ≤ 37,50C và
duy tri ít nhất 48 giờ. Điểm kết thúc phụ (secondary endpoint): (1) Thất bại
lâm sàng: tiếp tục còn triệu chứng và sốt sau 2 ngày chấm dứt kháng sinh hoặc
cần phải điều trị lại. (2) Thất bại vi sinh: cấy máu còn dương tính sau 7-9
ngày điều trị. (3) Biến chứng của thương hàn: xảy ra biến chứng trong khi nằm
viện. (4) Tái phát: có triệu chứng gợi ý thương hàn sau 1 tháng điều trị hoặc
có vi khuẩn Thương hàn ở phân sau 1,3, 6 tháng theo dõi.
Cỡ mẫu
Kết cục chính (primary outcome) là thời gian cắt sốt (giờ). Các
nghiên cứu trước đây cho thấy thời gian cắt sốt (TGCS) của azithromycin 130-139
giờ, của gatifloxacin khoảng 76 giờ. Như vậy mẫu cần khoảng 139 BN có cấy máu
(+) cho mỗi nhóm với tỉ số rủi ro (hazard ratio) là 1,40. Sai sót a=0,05
và lực mẫu (power)=0,80. Nếu trung vị TGCS azithromycin là 130 giờ, cỡ mẫu là
140 bệnh nhân cấy máu (+) cho mỗi nhóm, với lực mẫu (1-b)=0,80, phát hiện sự khác
biệt điều trị giữa 2 nhóm, trong đó TGCS của nhóm gatifloxacin ≤ 96 giờ.
Cách tiến hành phân bố ngẫu nhiên
Dùng phần mềm Excel với hàm RAND ()
tạo bảng số ngẫu nhiên khối với số đối tượng trong mỗi khối là 50. Sau phân bổ
được xếp và bỏ vào bao thư đục dán kín và xếp theo số liên tục ở 3 nơi nghiên
cứu. Do tính logic mà phân bổ ngẫu nhiên không phân tầng theo từng trung tâm.
Sau khi bệnh nhân đạt đủ chuẩn (tuyển vào, loại trừ) và ký
giấy ưng thuận, bác sĩ nhóm nghiên cứu sẽ mở bao thư theo đúng số liên tiếp quy
định sẵn và phân đối tượng vào nhóm. Đây là nghiên cứu nhãn mở không “làm mù”.
Phân tích thống kê
Biến kết cục là biến nhị phân (thất bại lâm sàng, thất bại
vi sinh, biến chứng của thương hàn): Dùng Fisher exact để so sánh giữa hai
nhóm. Odds ratio không hiệu chỉnh và KTC 95% của Cornfield để tính nguy cơ
tương đối (RR) cho các biến kết cục phụ (thất bại lâm sàng, thất bại vi sinh,
biến chứng của thương hàn) giữa hai nhóm.
Thời gian cắt sốt,
thời gian tái phát và thời gian thất bại toàn bộ được phân tích bằng phưong
pháp sống sót (survival methods). Dùng Kaplan-Meier để ước tính xác suất của
mỗi sự kiện (event) vào bất cứ thời điểm nào, dùng log-rank test để so sánh
TGCS giữa hai nhóm. Dùng mô hình Cox để tính tỉ số rủi ro (hazard ratio).
Tất cả BN có cấy máu hoặc cấy tủy xương (+) với Thương hàn
được phân tích theo qui trình (per
protocol) và phân tích theo phân bổ ngẫu nhiên ban đầu (intention-to-treat).
Lưu đồ tuyển chọn và BN tham gia được trình bày trong biểu
đồ 3.
Biểu đồ 3. Các đối tượng
tham gia nghiên cứu trong từng giai đoạn
a : Loại bỏ 102 (đã dùng KS n=41, thương hàn có biến chứng
n=8, tuổi < 6 tháng n=6, từ chối tham
gia n=16, BS nhóm nghiên cứu vắng n=30, dị ứng thuốc n=1)
b: ITT: Intention to treat (Phân tích theo phân bổ ngẫu
nhiên ban đầu)
c:
PP: Per protocol (phân tích theo quy trình)
Kết cục chính (primary outcomes). Không có sự khác biệt TGCS
ở hai nhóm (bảng 2).
Bảng 2. Kết cục điều trị giữa hai nhóm
Loại kết cục
|
Nhóm điều trị
|
||
Gatifloxacin n=145
|
Azithromycin=142
|
P
|
|
Chính (primary): TG cắt sốt (giờ)
|
106 (94-118)
|
106 (88-112)
|
0,984
|
Phụ : Điều trị thất bại n (%)
|
13/145 (9)
|
13/140 (9,3)
|
0,854
|
Không hoàn
tất điều trị
|
0
|
2
|
|
Thất bại lâm
sàng n (%)
|
6/145 (4,3)
|
6/140 (4,2)
|
1,000
|
Thất bại vi
sinh n (%)
|
2/145 91,40
|
3/140 (2,2)
|
0,680
|
Biến chứng n
(%)
|
0/145 (0)
|
8/140 (5,7)
|
0,003
|
Xuất huyết
tiêu hóa
|
0
|
4
|
|
Viêm phổi
|
0
|
2
|
|
Rối loạn chức
năng gan
|
0
|
2
|
|
Tái phát sau
xuất viện
|
4/137 (2,9)
|
0/127 (0)
|
0,052
|
Mang trùng ở
phân n (%)
|
1/137 90,7)
|
0/131 (0)
|
TGCS trung vị và KTC
95% của gatifloxacin là 106 giờ (94-118g) so với Azithromycin là 106 giờ
(88-112g) (logrank test p=0,984, HR=1,0
[0,8-1,26]). Đường sống sót Kaplan-Meier cho thấy tần suất cắt sốt vào ngày
7 của gatifloxacin là 82,8% (KTC95%:76,2-88,4%) và của azithromycin là 80,5%
(KTC95%:73,6-86,6%).
Phân tích ITT, TGCS trung vị là 100 giờ cho cả 2 nhóm (Gatifoxacin:
KTC95%:92-106g) và azithromicin (KTC95%: 88-112g) (logrank test p=0,914, HR: 1,01
[KTC95%; 0,82-1,25].
Kết cục phụ (secondary outcomes). Không có BN tử vong. Không
có sự khác biệt về thất bại toàn bộ giữa hai nhóm.
Phân tích PP, tỉ lệ BN thất bại điều trị nhóm gatifloxacin
là 13/145 (9%) và azithromycin là 13/140 (9,3%) (log rank test p=0,854, HR=0,93 [KTC95%: 0,43-2,0]). Giả dụ trong
tình huống xấu nhất tất cả BN bỏ dở điều trị đều thất bại thì tỉ lệ thất bại ở
nhóm azithromycin là 15/142 (10,6%) (log
rank test p=0,570, HR=0,81[KTC 95%: 0,38-1,70].
Thất bại vi sinh trong nhóm gatifoxacin là 2/145 (1,4%) và
nhóm azithromycin là 3/142 (2,2%) (p=0,680, OR=0,64 [0,05-5,7].
Không có biến chứng nào xảy ra trong nhóm gatifloxacin so
sánh với 8 ca có biến chứng trong nhóm azithromycin (5,7%) (p=0,003, OR=0
[0-0,4].
Giới hạn của đề tài nghiên cứu:
- Phân bổ ngẫu nhiên với khối lớn (50 đối tượng) do đó có sự
chênh lệch đối tượng giữa nhóm (186 so với 172 bệnh nhân trong dân số ITT).
- Tỉ lệ cấy phân dương tính với S. typhi thấp. Kết quả người
mang trùng trong phân đều thấp cả 2 nhóm, tuy nhiên giả thuyết rằng cả azithromycin
và nhóm fluoroquinolon có nồng độ thuốc trong nội bào cao và thấm vào mô tốt
nên diệt khuẩn nhanh và loại trừ nhanh ra khỏi cơ thể làm giảm tỉ lệ mang trùng
ở phân.
- Cả hai nhóm thuốc, đặc biệt ở trẻ em, phải nghiền thuốc để
phân liều do đó liều lượng không chính xác 10mg/kg/ngày cho gatifloxacin và
20mg/kg/ngày cho azithromycin.
Kết luận
Cả 2 kháng sinh gatifloxacin và azithromycin đều có tính an
toàn và hiệu quả cao trong điều trị thương hàn, đặc biệt ở các vùng có bệnh thương
hàn đa kháng thuốc và kháng nalidixic
acid cao. Giá thành điều trị 7 ngày của gatifloxacin rẻ hơn và bằng 1/3 so với
giá thành điều trị của azithromycin.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm gia Khải và
CS. Tần số tim và trị số huyết áp động mạch người lớn Việt Nam bình thường thập kỷ 90. Bản
thảo hằng số sinh học người Việt Nam thập kỷ 90.2. Phil Haln. Cách
tính cỡ mẫu trong Study design, bài giảng của GS Phil Haln ở Đại học Queen’ University , Canada 3. Moore D.S. and
McCabe G.P. Producing data in Introduction to the Practice of Statistics, 3rd
Edition. W.H. freeman and Company 1999 USA , pp: 240. 4. Montori V.M. and
Guyatt G.H. Intention-to-treat principle (commentary).CMAJ • November 13, 2001;
165 (10)5. Dolecek C, Tran
TP, Nguyen NR, Le TP, Ha V, Phung QT, Doan CD, Nguyen TB, Duong TL, Luong BH,
Nguyen TB, Nguyen TA, Pham ND, Mai NL, Phan VB, Vo AH, Nguyen VM, Tran TT, Tran
TC, Schultsz C, Dunstan SJ, Stepniewska K, Campbell JI, To SD, Basnyat B,
Nguyen VV, Nguyen VS, Nguyen TC, Tran TH, Farrar J. A multi-center randomised controlled trial of
gatifloxacin versus azithromycin for the treatment of uncomplicated typhoid
fever in children and adults in Vietnam .
PLoS ONE. 2008 May 21;3(5):e2188.
TS Nguyễn Ngọc Rạng, ĐHYD Cần Thơ, Email: nguyenngocrang@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét