CÁC LOẠI THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU TRONG BỆNH VIỆN
Nghiên cứu khoa học (NCKH) đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện. Môi trường bệnh
viện là nơi rất thuận tiện để thực hiện các đề tài nghiên cứu vì số lượng bệnh
nhân rất đông, các mặt bệnh rất đa dạng, các kỹ thuật chẩn đoán-điều trị mới
được cập nhật thường xuyên và kho lưu trữ hồ sơ bệnh án rất lớn.
Rất nhiều vấn đề sức khỏe cần được nghiên cứu như nghiên cứu
về các hình thái bệnh tật và tử vong, nghiên cứu về nguyên nhân và các yếu tố
nguy cơ liên quan đến bệnh tật, nghiên cứu ứng dụng triển khai các kỹ thuật
chẩn đoán-điều trị mới. Ngoài ra các nghiên cứu về quản lý bệnh viện, kinh tế y
tế, hệ thống tổ chức và công tác đìều dưỡng cũng rất quan trọng.
1. Các loại thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu là khâu quyết định để trả lời các câu
hỏi nghiên cứu. Có nhiều cách phân loại nghiên cứu. Cách phân loại đơn giản và
thực tiễn trong NCKH tại bệnh viện gồm 2 loại:
(1) Nghiên cứu thực nghiệm (experiments)
(2) Nghiên cứu không thực nghiệm (non-experiments)
Chỉ có một hình thức nghiên cứu thực nghiệm duy nhất đó là
thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (Randomized Controlled Clinical
Trial), viết tắt là RCT, có giá trị cao nhất về mặt y học chứng cớ. Tất cả các
loại hình nghiên cứu khác được xếp vào nhóm bán thực nghiệm hoặc không thực
nghiệm bao gồm: Nghiên cứu đoàn hệ, nghiên cứu bệnh chứng, nghiên cứu cắt ngang
và báo cáo ca bệnh. Để có giá trị nhất về mặt khoa học, chúng ta nên thiết kế
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên. Tuy nhiên trên thực tế lâm
sàng không phải lúc nào chúng ta cũng thực hiện được vì vấn đề đạo đức y học,
người bệnh từ chối tham gia, không có điều kiện bào chế giả dược (placebo) hoặc
không thể “làm mù” (blinding) như khi áp dụng các kỹ thuật mổ mới mà người bệnh
mong muốn được điều trị thay vì kỹ thuật mổ cũ trước đây. Thứ bậc về mặt y học
chứng cứ xếp từ cao đến thấp được trình bày trong biểu đồ 1.
2. Ứng dụng các loại thiết kế nghiên cứu tại bệnh viện
Báo cáo ca bệnh thường dùng để trình bày những ca bệnh hiếm
hoặc có những diễn tiến bất thường so với các trường hợp kinh điển được mô tả
trước đây. Nếu có hàng loạt ca có biểu hiện lâm sàng gần giống nhau thì ta báo
cáo hàng loạt ca (case series report). Ví dụ báo cáo bảy trường hợp ngộ độc
rượu methanol tại Huyện Phú Tân, An Giang.
Nghiên cứu cắt ngang thường được dùng để điều tra tình hình
nhiễm khuẩn bệnh viện. Nghiên cứu được tiến hành thường trong 1-2 ngày, ghi nhận tất cả các trường
hợp nhiễm khuẩn tại tất cả các khoa trong bệnh viện, từ đó tính được tỉ lệ hiện
hành (prevalence), có thể kết hợp tìm yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn bệnh viện
từ nghiên cứu này (ví dụ: tuổi bệnh nhân, khoa, thời gian nằm viện, có sử dụng
các dụng cụ xâm nhập…).
Nghiên cứu bệnh-chứng thường được dùng để tìm các yếu tố
phơi nhiễm cho các bệnh nhân ung thư hoặc các bệnh có tỉ lệ bệnh trong cộng
đồng thấp. Ví dụ: trong 5 năm, khoa ung thư tiếp nhận điều trị 50 bệnh nhân bị
ung thư gan trong đó có 30 người bị nhiễm viêm gan siêu vi B mạn. Tiến hành
chọn nhóm đối chứng (50 người hoặc nhiều hơn) có cùng độ tuổi. Để tiện lợi,
nhóm đối chứng thường được chọn từ các bệnh nhân nhập viện không có bệnh
nền như các bệnh nhân ngoại khoa (gãy xương…) hoặc chọn các nhân viên bệnh viện
có cùng độ tuổi và khỏe mạnh, tất nhiên không mắc ung thư gan. Sau đó tiến hành
làm xét nghiệm viêm gan B (ví dụ: HBsAg). Kết quả xét nghiệm cho thấy 50 người
khỏe mạnh có 10 người bị nhiễm virus viêm gan B mạn. Từ 2 tỉ lệ này tính được
tỉ số odds (30/20:10/40). Như vậy Odds ratio=6 và kết luận
người bị ung thư gan có tỉ lệ nhiễm viêm gan siêu vi B mạn gấp 6 lần người
không bị ung thư gan.
Nghiên cứu đoàn hệ có thể áp dụng cho nhiều đề tài nghiên
cứu trong bệnh viện. Lúc này các yếu tố phơi nhiễm sẽ là một can thiệp ngoại
khoa, một thủ thuật, một loại thuốc điều trị, các chỉ số của xét nghiệm… Thiết
kế nghiên cứu đoàn hệ có thể chỉ nghiên cứu theo dõi một nhóm. Ví dụ theo dõi
biến chứng của một số bệnh nội khoa hoặc mức độ tái phát sau mổ của các bệnh
ngoại khoa trong một khoảng thời gian. Thông thường thiết kế đoàn hệ gồm 2 nhóm
(nhóm có can thiệp và nhóm chứng) cũng gần giống thiết kế nghiên cứu lâm sàng
đối chứng ngẫu nhiên, tuy nhiên đối tượng nghiên cứu không được phân bổ ngẫu
nhiên vào 2 nhóm.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên thường được dùng để so sánh hiệu quả của 2
loại can thiệp ngoại khoa hoặc 2 loại thuốc điều trị khác nhau. Ví dụ so sánh
hiệu quả điều trị thương hàn của ceftriaxon tiêm tĩnh mạch so với gatifloxacin
uống, hoặc so sánh hai kỹ thuật mổ trong ngoại khoa.
Tài liệu tham khảo
Kirsten Bibbins-Domingo. Types of study designs: from
descriptive studies to randomized controlled trials, Website: rds.epi- csf.org/ticr/syllabus/courses.
TS Nguyễn Ngọc Rạng. ĐHYD Cần Thơ. email: nguyenngocrang@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét